Wednesday, July 30, 2014

Tác dụng của khế trong các vấn đề về bệnh

Khế loại trái cây quá đỗi quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam. Không những thế quả khế còn góp mặt trong câu chuyện "ăn quả khế trả cục vàng". Khế thường làm nguyên liệu, như một thành phần không nhỏ vào các món ăn dân giã.  Và hiện tại quả khế, lá khế ...lại là những nguyên tố giúp hạn chế bệnh như than hu, sởi, viêm họng.... của chúng ta.

Khế làm thuốc
Khoa học hiện đại đã xác định trong thành phần của khế múi, có các chất theo g%: nước 92, protid 0,6, glucid 3,1; cellulose 2,6; và theo mg%: calcium 10; phosphor 8; sắt 0,9; caroten 160; vitamin B1 0,05; vitamin C 30.
Cả phương Đông lẫn phương Tây đều sớm biết công dụng y học của khế, và tên của người thầy thuốc và triết gia Arập Averrhoes (thế kỷ 12) đã được dùng để đặt tên cho cây khế. Averrhoes đã phát hiện khế là một dược liệu tốt, dùng trộn với hồ tiêu để làm toát mồ hôi, giã nhỏ rồi đắp lên người để làm tiêu tan sự rã rời, bải hoải; còn dùng chữa bệnh ngứa, kích thích hoạt động của mắt, chữa ho , sưng hạch tiết nước bọt, viêm họng, đau thấp khớp, viêm đa khớp , phù thũng.

Hầu hết các bộ phận của cây khế đều được sử dụng làm thuốc:

- Rễ có vị chua, chát, tính bình, được dùng làm thuốc sáp tinh, chỉ huyết, chỉ thống để trị di tinh, chảy máu mũi, đau đầu mạn tính, tê đau khớp xương…
- Cành lá có vị chua, chát tính mát được dùng làm thuốc khư phong lợi thấp, tiêu thũng chỉ thống, để trị cảm mạo do phong nhiệt, viêm dạ dày - ruột cấp tính, tiểu tiện bất lợi, sản hậu phù thũng, đòn ngã tê đau, mụn nhọt sưng lở…
- Hoa có vị ngọt, tính bình được dùng làm thuốc thanh nhiệt để trị nóng, lạnh đan xen nhau...
- Trái có vị chua ngọt, tính bình được dùng làm thuốc sinh tân chỉ khát, trị ho do phong nhiệt, đau họng, bệnh lỵ…

Trái khế thường được dùng trị cảm, sốt nóng, khát nước, giải độc, lợi tiểu.
Chữa dị ứng do tiếp xúc với sơn: dùng trái khế cắt miếng xát hay dùng lá vò xát. Lá khế (có thể thêm vỏ cây khế) nấu nước, trong uống ngoài đắp rồi tắm chữa lở sơn, mẩn ngứa, mày đay.
Chữa ngộ độc: dùng nước khế ép uống thật nhiều.
Chữa đái không thông: dùng bảy trái khế chua, cắt mỗi trái lấy một miếng ở 1/3 phía gần cuống, đổ vào một chén nước, sắc còn nửa chén, uống vào lúc còn nóng; lại lấy một trái khế và một củ tỏi cũng giã đều, đem đắp vào rốn.


Lá khế:
Ăn khế bị ê răng, nhai một nắm lá khế là hết.
Lá khế sao thơm sắc uống chữa sốt nóng, cảm nắng, đái ít.
Với trẻ em lên sởi, dùng lá khế (và vỏ cây khế) sắc uống thúc sởi mọc đều, nấu nước tắm để tiệt nọc sởi sau khi bay hết.
Nếu bị ho khan, ho đàm, thì lấy mấy chùm hoa khế tẩm rượu gừng sao thơm sắc uống.

Lưu ý, trong khế có hàm lượng axít oxalic cao nên những người bị bệnh thận cần tránh ăn khế nhiều và thường xuyên, vì axít oxalic dễ gây ra sỏi thận nặng hơn và tình trạng nặng hơn sẽ dẫn đến suy thận gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng con người. Chất axít này còn cản trở sự hấp thu canxi trong cơ thể nên những người còi xương, có vấn đề xương khớp, trẻ dưới năm tuổi nên hạn chế ăn.
Người đau dạ dày hoặc đang đói cũng không nên ăn khế, đặc biệt khế chua.

No comments:

Post a Comment